“Vẻ đẹp Huế chẳng nơi nào có được,
Nét dịu dàng pha lẫn trầm tư”…[1]
___________________________________________________________________________________________________________
Huế thì nhỏ và nhiều biến động. Gần đây, biến động dễ thấy nhất là hình như, người dân Huế cứ giật mình thon thót, hay choáng ngợp về cụm từ hoa mỹ: “các giá trị Huế”. Nhưng trong thập niên 70, ở thành phố nhỏ bé này, nơi mà ra đường thì gặp giáo sư và sinh viên công chức bên “cổng trường vôi tím”, cái gọi là “các giá trị Huế” thì không hề bị phô phang một cách ồn ào đến thế.
Giá trị Huế có thật không? Chắc chắn, nó có và rất đặc trưng. Một trong những đặc trưng đó là không khoa trương. Nó âm thầm chảy trong huyết mạch của vùng đất lạ lùng này, từ khi chúa Nguyễn mở cõi Phú Xuân. Nó không là đề tài của các nhà Huế học (chính hiệu và giả hiệu) theo kiểu “chuyện tình các cung phi đời Nguyễn”, hay “vua Minh Mạng có bao nhiêu ái thiếp?”. Nó lại càng không phải là sự lạm dụng đến mức loạn ngôn hai chữ “cung đình”. Đến mức một quán chè chồm hổm với ghế nhựa cũng đường hoàng treo bảng “cung đình” to tướng. Hay các bữa cơm vua thừa mứa, kệch cỡm với hoàng bào mũ áo xênh xang mà người ta rao bán như một sản phẩm du lịch đặc thù. Hay những con thuyền rồng diêm dúa, lòe loẹt nườm nượp trên sông Hương mỗi đêm, với những giọng hò đầy son phấn.
Huế, kinh đô thần thánh hay đất Thần Kinh, thường bị chính người Huế tự diễu nhại theo cách hiểu một chuyên khoa y học chuyên về sự “chập mạch” của não bộ. Lờ đờ, chậm chạp và chảnh chọe, người ta hay bắt gặp những than phiền như thế từ những khách du lịch năng động phương xa. Không khác với những địa danh hỗn hào khét tiếng của Việt Nam, ở trung tâm thành phố Huế, dễ dàng gặp nạn nói thách, chèo kéo, chém chặt, kể cả nạn bán phấn buôn hương. Làm sao mà khỏi dậm chân than khổ, khi những đồ văn phòng tứ bảo thô vụng made in China vẫn nhan nhản trong các quầy lưu niệm ở Huế, với giá trên trời?
Khách phương xa, cũng như người Huế, đều cười buồn (và buồn cười) với các “giá trị Huế” kiểu này.
Ảnh: Dr.Nikonian
Thế là thở dài, thương tiếc cho một gánh bún bò Huế nguyên chất không thịt tái nham nhở, không ngồn ngộn rau sống, không ngọt lừ đường cát cho vừa miệng khách phương Nam. Thế là ngậm ngùi rảo bước trên đường phố nơi đây, không thương, không ghét. Chỉ tiếc cho một thôn Vĩ Dạ nền nã ngày nào bị rạch mặt với café xanh đỏ, nhà hộp ngất nghểu, loa thùng xập xình thâu đêm…
Tìm đâu ra một Huế, miễn nhiễm với sự ô trọc của công nghiệp du lịch giả cầy và thô vụng kiểu này?
Nó vẫn còn, trên dốc Bến Ngự, trong một ngõ nhỏ rợp bóng tre. Ở nơi đó, dưới bóng chùa Huế rêu phong, tôi đã ngủ một giấc thật say. Giấc ngủ không mộng mị, không bị đè nghiến ra bởi tiếng karaoke xấc xược chát chúa. Thức giấc bằng tiếng guốc gỗ của người quét sân chùa, lẫn trong thật nhiều giọng chim ca và tiếng gà xao xác. Chỉ dăm bước chân thôi, gã bộ hành đã thấy giọt mưa trên mái tôn nghèo, thong thả nhỏ giọt từng vết rêu phong nho nhỏ trên hè phố. Chỉ dăm phút thôi, men theo bờ tường cũ kỹ của một ngôi chùa nhỏ khiêm cung, ta đã thong dong ngồi ở một quán café cũ kỹ, chìm trong màn sương sớm dày đặc của dốc Bến Ngự. Thấp thoáng đâu đó một vóc dáng nhỏ nhắn, còng lưng với gánh bồ kết rau thơm buổi sáng. Bồ kết rau thơm đó, café sáng đó, ta được trả với giá bình thường như mọi người dân nơi đây, mà không hề nhăn mặt vì bị quát giá trên trời. Nó rẻ đến mức tội nghiệp so với Sài thành đắt đỏ. Nhất là khi chạnh lòng mà nghĩ ngợi, từ gánh bồ kết này, bao nhiêu đèn sách đã được nuôi nấng thành người hữu dụng.
Ảnh: Dr. Nikonian
Café quán nghèo của Huế thì đắng xít và dở chưa từng thấy. Nhưng với sương sớm, với làn khói đốt lá ban mai kia, nó đã trở thành một phong vị. Phong vị Huế nguyên chất, hiền lành, nghèo nhưng lương thiện! Và chưa hề bị làm uế tạp bởi nền du lịch quá sức hỗn hào của chúng ta.
Chỉ hai ngày thôi, tôi được đắm mình trong một không gian đầy chất Huế như thế. Không thơ mộng, hữu tình như carte postale. Không hào nhoáng, lòe loẹt như màn múa “cung đình” Lục cúng hoa đăng (lại “cung đình (?)). Nhưng chỉ với lời chào “Chú chưa vô lại Sài Gòn hè?”, của chị hàng xén đầu ngõ, lòng tôi đã được giữ lại nơi đây. Như một sự phải lòng đầy lưu luyến…
Phải chăng, tôi đã chạm đến các giá trị Huế thật sự, mà bấy lâu nay vẫn âm thầm tiếc nuối? Phải chăng, cụ Phan-ông già bến Ngự, cùng các người dân Huế nơi đây, đã âm thầm gìn giữ các giá trị này bằng chính cuộc sống nhẫn nại, hiền lương của họ?
Văn hóa Huế, như mọi nền văn hóa thâm hậu và sang trọng khác, thì từ chối mọi khoa trương ồn ào. Tôi tin là thế, như một người đã trót phải lòng tiếng chuông chùa điềm đạm trong một sáng mùa đông ở Huế.
Viết từ dốc Bến Ngự, tháng 12.2009
http://mp3.zing.vn/mp3/nghe-bai-hat/Loi-cu-ta-ve-Bang-Kieu.IW6OFAZW.html
Đăng ở báo TT ỏ đây
[1] Huế tình yêu của tôi (Trương Tuyết Mai)